Brandy của Mỹ
Việc sản xuất Brandy của Mỹ bắt đầu từ hoạt động truyền giáo của các nhà truyền giáo người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Trong những năm tháng nội chiến, Brandy trở thành ngành công nghiệp chủ yếu với thị trường lớn là Châu Âu. Trong một khoảng thời gian dài Leland Standford, người sáng lập ra đại học Stanford, từng là nhà sản xuất Brandy lớn nhất thế giới. Tuy nhiên bệnh Phylloxera trên cây nho và việc cấm sản xuất và buôn bán rượu vào những năm 1920 đã làm tê liệt toàn bộ hoạt động của ngành rượu mạnh.
Đơn kháng luật cấm được chấp thuận và ngành rượu mạnh của Mỹ lại đi vào hoạt động, nhưng cũng giống như nhóm rượu Bourbon, thế chiến thứ II đã làm cho rượu Brandy của Mỹ dậm chân tại chỗ. Ngay sau thế chiến, hiệp hội rượu Brandy giao cho ngành trồng nho và làm rượu của Đại Học California ở thành phố Davis nhiệm vụ phát triển một loại Brandy chung, mang phong cách California. Nó có vị đầm, nhẹ hơn hầu hết các loại Brandy của Châu Âu khác và có tập hợp các mùi thơm làm cho nó trở thành một loại rượu pha chế rất ngon. Vào đầu những năm 1940, các nhà sản xuất Brandy của California bắt đầu chuyển sang làm Brandy mang phong cách mới này.
Các loại rượu Brandy ngày nay làm bằng các thùng chưng cất dạng ống từ các loại nho làm rượu vang như Thompson Seedless và Flame Tokay. Một vài nhà sản xuất sử dụng thùng chưng cất dạng bình và dùng các loại nho Ugni Blanc, Colombard và Folle Blanche. Rượu Brandy của Mỹ được ủ từ 2 đến 12 năm trong các thùng gỗ sồi Mỹ đã qua sử dụng để bớt mùi hăng của gỗ. Brandy của California không phân loại giống như Cognac theo VSOP hay số sao. Các loại Brandy đắt tiền thường được pha rượu Brandy được ủ lâu năm và chưng cất qua thùng chưng cất dạng bình.